Công nghệ NGN (Next Generation Network - NGN)  với khả năng tích hợp nhiều dịch vụ giá trị gia tăng đang là một xu hướng phát triển mới của ngành viễn thông thế giới. Khi môi trường kinh doanh đang ngày càng phức tạp và mang tính cạnh tranh cao, chất lượng dịch vụ trở thành chìa khóa cho sự thành công thì nhu cầu sở hữu các dịch vụ truyền thông mới với nhiều tiện ích cũng không ngừng tăng lên...

Công nghệ NGN ra đời hội tụ cả 3 mạng: mạng thoại, mạng không dây và mạng số liệu vào một kết cấu thống nhất để hình thành một mạng chung, thông minh, hiệu quả cho phép truy xuất toàn cầu, tích hợp nhiều công nghệ mới, ứng dụng mới và mở đường cho các cơ hội kinh doanh phát triển, đang ngày càng thỏa mãn được nhu cầu của người sử dụng.

Mạng Thế hệ mới (NGN) là gì?

Những ứng dụng cần nhiều băng thông như giáo dục truyền hình, ứng dụng truyền hình trực tuyến trong y học, thuyết trình trực tuyến yêu cầu mạng có khả năng đáp ứng mạnh để có thể truy cập dễ dàng và mọi lúc mọi nơi. Những mạng viễn thông như vậy, dựa trên nguyên lý chạy đa dịch vụ thông qua một cơ sở hạ tầng chung thống nhất,  được biết là Mạng Thế hệ mới (NGN). Nó là một mạng duy nhất, kế thừa cho hầu hết các mạng truyền thoại và dữ liệu tách biệt ngày nay.

Kiến trúc phân lớp của mạng NGN được phân hoạch thành 3 phân lớp chính:

  1. Phân lớp Truyền dẫn và Mạng truy nhập
  2. Phân lớp Mạng chuyển mạch trục (Backbone CORE)
  3. Phân lớp Điều khiển và Dịch vụ (service & network control)

Khi nói đến mạng NGN là nói đến “dịch vụ” chứ không phải như cách xây dựng mạng truyền thống là chú trọng vào xây dựng những mạng riêng lẻ, mỗi một dịch vụ sẽ phải xây dựng một mạng dùng riêng, ví dụ như mạng thoại TDM, mạng di động, mạng truyền số liệu... Chính vì vậy mà các tiêu chí cho mạng hội tụ để đảm bảo chi phí đầu tư thấp nhất phải là:

  • Xây dựng một mạng hội tụ đa dịch vụ trên một nền tảng mạng duy nhất;
  • Cung cấp các dịch vụ mạng riêng ảo an ninh lớp 2, lớp 3, các dịch vụ multi- media và data với các cam kết chất lượng dịch vụ SLA;
  • Giải pháp mở và tương thích khi tích hợp dịch vụ;
  • Bảo vệ đầu tư, dễ dàng mở rộng nâng cấp mạng.

Ngoài các dịch vụ hiện tại như thoại, mạng NGN cung cấp các dịch vụ theo yêu cầu như hội nghị truyền hình và các dịch vụ ứng dụng đa phương tiện khác với yêu cầu băng thông đến hàng chục Mbps cho một người dùng. Đặc điểm chính của mạng NGN là có khả năng cung cấp tất cả các dịch vụ băng rộng theo yêu cầu với các mức dịch vụ khác nhau. Ngoài ra, mạng NGN tích hợp công nghệ di động băng thông rộng, vì vậy nó cho phép người dùng có thể trao đổi thông tin dịch vụ băng rộng bất chấp họ đang sử dụng máy tính để bàn hay thiết bị hỗ trợ số cá nhân (PDA) để lướt Internet từ taxi.

Mạng NGN vật lý bao gồm nhiều đường truyền bằng sợi quang, phát chuyển dữ liệu dạng gói tin mà có thể hỗ trợ cho nhiều dịch vụ đồng thời. Các thành phần của mạng NGN (như switch hay router) có thể hoạt động với nhiều cấu hình mạng khác nhau, với nhiều giao thức khác nhau – giống như doanh nghiệp có thể nói nhiều thứ tiếng khác nhau đồng thời.

Mạng NGN và công nghệ MPLS

Một sự kỳ diệu nữa của mạng NGN là có thể được phát triển bởi các nhà khai thác mới không yêu cầu có sẵn cơ sở hạ tầng hay chỉ cần nâng cấp, mở rộng trên cấu trúc mạng sẵn có. Ngày nay, MPLS (chuyển mạch nhãn đa giao thức) là kỹ thuật được công nhận cho mạng hội tụ ở Việt Nam sau khi có sự đánh giá kỹ càng các mạng ATM, RPR và các mạng khác. MPLS đã có một bước phát triển rất dài bởi cộng đồng MSF và IETF. MPLS đang dẫn đầu về các mức linh hoạt, tính đảm bảo và an toàn mà ngày nay chưa có một công nghệ nào khác có thể thỏa mãn được.

MPLS cho phép các nhà cung cấp dịch vụ tách biệt việc kiểm soát lưu thông mạng dựa trên yêu cầu của ứng dụng. MPLS còn có khả năng cho phép ứng dụng tự động yêu cầu tài nguyên mà chúng cần sử dụng trên hạ tầng mạng. Tuy nhiên, chất lượng mạng chỉ dựa vào một mình MPLS và IP thì không đủ, do vậy tính thông minh cộng thêm (Intelligent Network) là cần thiết để đảm bảo chất lượng, bảo mật, kế toán và thanh toán cho dịch vụ mới. Việc kiểm soát tốt hơn cũng là điều cần thiết cho phép nhà cung cấp dịch vụ có thể kiểm soát lưu thông trên mạng.

Có thể nói rằng, công nghệ mạng NGN chính là chìa khoá giải mã cho công nghệ tương lai, đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu kinh doanh trên với đặc điểm quan trọng là cấu trúc phân lớp theo chức năng và phân tán các tiềm năng trên mạng, làm cho mạng mềm hoá và sử dụng rộng rãi các giao diện mở đa truy nhập, đa giao thức để kiến tạo các dịch vụ mà không phụ thuộc quá nhiều vào các nhà cung cấp thiết bị và khai thác mạng.

Sự tiến bộ trong công nghệ, sức cạnh tranh mạnh mẽ và một môi trường phát triển thông thoáng sẽ làm thay đổi tận gốc nền kinh tế truyền thông thoại, dữ liệu và dịch vụ video. Một cách tương ứng, các nhà cung cấp dịch vụ cũng đang thay đổi mô hình kinh doanh của mình một cách mạnh mẽ, không chỉ hạ giá thành sản phẩm dịch vụ mà còn tạo ra những dòng doanh thu khác biệt, mới mẻ. Công nghệ NGN đã giúp nhà cung cấp dịch vụ, các nhà cung cấp truyền hình cáp, các nhà cung cấp dịch vụ di động,… hội tụ kiến trúc hạ tầng mạng, gia tăng thêm vào tính thông minh để có thể cung cấp các dịch vụ cao cấp.

NGN gia nhập thị trường công nghệ Việt Nam

Việt Nam là một thị trường có tốc độ phát triển mạnh tại châu Á với số lượng khách hàng sử dụng các dịch vụ băng rộng tăng từng ngày.

Tháng 12/2003, VNPT đã lắp đặt xong giai đoạn 1 mạng viễn thông thế hệ mới NGN và đã đi vào vận hành thành công. Đây là mạng hạ tầng thông tin duy nhất dựa trên công nghệ chuyển mạch gói (packet-switch), được VNPT chọn lựa để thay thế công nghệ chuyển mạch kênh (circuit-switch). Juniper Networks là nhà cung cấp và triển khai mạng NGN/MPLS cho VNPT. Đây là mạng sử dụng công nghệ chuyển gói MPLS với đặc tính linh hoạt, ứng dụng những tiến bộ của công nghệ thông tin và công nghệ truyền dẫn quang băng rộng nên tích hợp được dịch vụ thoại và dịch vụ truyền số liệu. Song song với việc thiết lập lớp chuyển tải trục và vùng, VNPT đã triển khai lớp truy nhập của mạng NGN với các Media Gateway và hệ thống băng rộng công nghệ xDSL hỗ trợ các kết nối ADSL và SHDSL. Với hạ tầng mạng xDSL này, VNPT đã cung cấp dịch vụ truy nhập Internet băng rộng MegaVNN tại nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước. Việc ứng dụng công nghệ NGN của VNPT đã đánh dấu một tiêu chuẩn mới cho các nhà cung cấp dịch vụ khác như Viễn thông Điện lực (EVN Telecom), Viettel, SPT, Công viên Phần mềm Quang Trung (QTSC), Khu Công nghệ cao Sài Gòn (SHTP)... để phát triển mạng dịch vụ của mình.

Lợi ích lớn từ NGN/MPLS

Sự chuyển biến kiến trúc mạng này, không giới hạn ở các nhà cung cấp dịch vụ công cộng mà ngay cả các doanh nghiệp/tổ chức lớn cũng chuyển hóa. Ví dụ như Bộ Tài chính. Mạng của Bộ Tài chính là hệ thống mạng khá phức tạp, phục vụ cho nhiều phân hệ, ban ngành trong Bộ, cũng giống như mạng của các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông VNPT, EVN Telecom, Viettel... Chính vì vậy, thiết kế cho mạng của Bộ Tài chính phải là tối ưu, ổn định, kiểm soát tập trung, an ninh, an toàn và bảo mật, đồng thời phải có độ tương thích cao giữa các thiết bị mới và thiết bị sẵn có. Và Bộ Tài chính đã đi đến quyết định ứng dụng mạng NGN được thiết kế với công nghệ MPLS hiện đại.

Nhu cầu của Bộ Tài chính trong việc xây dựng mạng tích hợp đa dịch vụ được thể hiện tóm tắt như sau: Xây dựng tổng thể một mạng tích hợp đa dịch vụ, kết nối tới 64 tỉnh thành và tích hợp với hệ thống mạng hiện tại. Kết nối vật lý chủ yếu dựa trên các luồng leased-line và MPLS VPN, ngoài ra còn có các đường truyền dẫn cáp quang với băng thông FE/GE cho một số mạng LAN và campus tại HCM/HNI. Tổ chức mạng sẽ được chia thành 3 trung tâm miền. Trung tâm dữ liệu (Data Center) và vận hành mạng NOC sẽ tập trung tại Hà Nội và TP. HCM. Thiết kế cũng phải đề cập đến giải pháp tích hợp và chuyển đổi mạng hiện tại thành một mạng thống nhất... Hiện nay, Bộ Tài chính vẫn đang triển khai công nghệ NGN tại các tỉnh thành trong cả nước và bước đầu đã thu được những lợi ích lớn. Dự kiến, dự án xây dựng hệ thống hạ tầng truyền thông MPLS của Bộ Tài chính, do hãng bảo mật Juniper Networks triển khai, sẽ hoàn thành vào tháng 9/2007.

Vừa qua, Pacific Airlines đã làm một cuộc cách mạng trong hoạt động kinh doanh của mình, từ sử dụng vé giấy đến chuyển hoàn toàn sang TMĐT ở tất cả các khâu: đặt chỗ, mua vé, in vé, thanh toán… hoàn toàn qua mạng Internet. Bước ngoặt này đã mang lại cho Pacific Airlines một nguồn lợi lớn. Hiện nay, Pacific Airlines đang sở hữu một hệ thống bán vé hiện đại nhất Việt Nam với phần mềm của Navitaire và hạ tầng mạng của Juniper Networks. Việc ứng dụng công nghệ MPLS hiện đại với thiết bị tường lửa SSG của Juniper đã mang lại cho Parcific Airlines những hiệu quả như độ sẵn sàng cao trên toàn hệ thống với việc dự phòng trên thiết bị, đường truyền. Điều này nhằm đảm bảo hệ thống thư tín, các giao dịch điện tử cũng như các ứng dụng khác luôn trong tình trạng sẵn sàng, giảm thiểu các sự cố ngắt mạng nên đáp ứng tối đa nhu cầu kinh doanh cho Pacific Airlines; Kết nối an toàn cho các chi nhánh cố định sử dụng môi trường Internet, giảm chi phí… Đối với người dùng từ xa hay các chi nhánh đặt tại Đài Bắc, Úc Châu… giao diện người dùng luôn tạo cảm giác thân thiện, giúp nhân viên đăng nhập mạng một cách dễ dàng mà không cần cài đặt máy tính phức tạp, hay mất công đào tạo...

Hệ thống ngân hàng tại Việt Nam cũng đang dần dần triển khai mạng thế hệ mới NGN. Techcombank – ngân hàng đầu tiên ứng dụng CNTT vào hoạt động cũng lựa chọn công nghệ NGN với những ứng dụng linh hoạt. Theo ông Nguyễn Vân, Phó  phòng CNTT của Techcombank, ngân hàng này đã có ứng dụng hệ thống NGN vào mạng lưới giao dịch của Techcombank từ năm 2006 và đã sử dụng sản phẩm của hãng Juniper. Cho đến thời điểm hiện tại, hệ thống NGN ứng dụng khá hiệu quả trong việc phát triển mạng lưới của Techcombank:

  • Thứ nhất, về tiết kiệm chi phí thì công nghệ NGN tiết kiệm được khoảng 50% so với các công nghệ cũ.
  • Thứ hai, về độ linh hoạt thì công nghệ NGN có thể giúp cho Techcombank phát triển mạng lưới rất đơn giản và nhanh chóng.

Sau Techcombank, các ngân hàng khác như VPBank, Habubank, BIDV, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng NN&PTNT… cũng ứng dụng công nghệ NGN vào hệ thống mạng hạ tầng cơ sở.

Công nghệ NGN đã tạo ra cơ hội giảm thiểu chi phí trong sản xuất kinh doanh và tăng khả năng cạnh tranh cao trong môi trường kinh doanh hiện nay. Với việc sử dụng các thiết bị nhỏ thích hợp hơn và tốn ít năng lượng hơn, tiết kiệm nhân lực, tiết kiệm chi phí hàng ngày, đặc biệt là những tiện ích về quản lý chất lượng tốt và rất hiệu quả khi cho kết nối phân tán nhưng lại tập trung vào một mối, NGN/ MPLS đã trở thành sự lựa chọn tối ưu cho các tổ chức và doanh nghiệp tại đất nước hơn 85 triệu dân này.

(trích từ báo Bưu điện VN) 




Bình luận

  • TTCN (0)