Sau 5 năm chính thức cung cấp, giá cước dịch vụ FTTH (Fiber To The Home - cáp quang tới tận nhà) đã giảm đi nhanh chóng. Theo đại diện các nhà mạng, mức giá này sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới.

Sau 5 năm giá giảm chỉ còn một nửa

Tại Việt Nam, FPT Telecom “lĩnh ấn mở đường” thị trường FTTH bằng việc thử nghiệm công nghệ từ tháng 12/2006. Khi đó, FPT Telecom đưa ra 4 gói cước FTTH 4, 8, 16, 20Mbps với chi phí cài đặt ban đầu 8 triệu đồng, phí thuê bao hằng tháng tương ứng cho bốn gói cước là 3 triệu, 6 triệu, 12 triệu và 15 triệu đồng. Đến tháng 7/2010, Việt Nam đã có tất cả 7 nhà cung cấp dịch vụ FTTH với giá cước dao động từ 1,5 triệu đồng/tháng đến 30 triệu đồng/tháng (tuỳ theo tốc độ) và đối tượng khách hàng nhắm đến chủ yếu là các doanh nghiệp.

Trong số các gói cước dành cho đối tượng khách hàng doanh nghiệp, VDC/VNPT đang cung cấp các gói cước FiberVNN tốc độ truy nhập lần lượt 30Mbps, 35Mbps, 45Mbps, 100Mbps với mức phí sử dụng trọn gói 2 triệu, 2,5 triệu, 5 triệu và 16 triệu đồng. FPT Telecom cũng đưa ra 4 gói cước FTTH với tốc độ từ 30 Mbps cho đến 60 Mbps và mức giá dao động trong khoảng từ 2,5 triệu đến 15 triệu đồng. Khiêm tốn hơn, Viettel chỉ giới thiệu 2 gói cước có tốc độ 30 Mbps và 50 Mbps với mức giá tương ứng 2 triệu và 6 triệu đồng. Nhà cung cấp CMC TI lại đưa ra 6 gói cước, trong đó có tốc độ truy nhập từ 24 Mbps đến 480 Mbps với mức giá thấp nhất khoảng 1,5 triệu đồng và cao nhất lên đến 30 triệu đồng. Như vậy, chỉ sau khoảng 5 năm, để sử dụng một gói cước FTTH, mức giá thấp nhất người dùng bỏ ra đã giảm một nửa (từ 3 triệu đồng xuống còn 1,5 triệu đồng).

Bên cạnh các gói cước FTTH, thời gian gần đây, một số ISP đã tung ra các hình thức cáp quang mới như cáp quang tới toà nhà - FTTB (Fiber To The Building) do CMC TI cung cấp hay cáp quang tới tủ thiết bị - FTTC (Fiber To The Curb) của FPT Telecom với mức giá từ 500 nghìn cho đến 800 nghìn đồng nhằm hướng đến khách hàng hộ gia đình hay các doanh nghiệp, công ty nhỏ.

Trao đổi với phóng viên Báo Bưu điện Việt Nam, ông Vũ Hoàng Liên, Chủ tịch Hiệp hội Internet Việt Nam cho biết, xu hướng cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) chính là nguyên nhân lớn nhất khiến cho mức giá FTTH liên tục điều chỉnh. “Ngoài ra, do lợi nhuận vẫn cho phép và đảm bảo nên các ISP có thể giảm giá được”, ông Liên nói.

Đồng quan điểm, ông Ngô Quốc Bảo, Phó Tổng giám đốc Công ty FPT Telecom miền Bắc cũng cho rằng, các nhà cung cấp phải giảm giá xuống để cạnh tranh lẫn nhau và thu hút khách hàng. Bên cạnh đó, việc FTTH có một lượng người dùng đủ lớn so với những năm trước cũng là cơ sở khiến mức giá có thể giảm xuống thấp như hiện nay.

Theo đại diện Công ty CMC TI, việc áp dụng công nghệ mới như công nghệ GPON mà CMC TI đang sử dụng đã khiến cho chi phí vận hành, quản lý giảm đi khá lớn. “Vì vậy, CMC TI có thể đưa ra mức giá tương đối hợp lý so với các nhà mạng khác tại thời điểm ra mắt dịch vụ dù ra đời sau”, vị đại diện này nhấn mạnh.

Những điều kiện để tiếp tục giảm giá

Theo đại diện của CMC TI và đại diện Công ty FPT Telecom miền Bắc, mức giá các nhà mạng đưa ra hiện nay khá hợp lý và sát so với chi phí vận hành của FTTH. Tuy nhiên, trong một vài năm tới, khi các nhà mạng có được lượng khấu hao thiết bị, công nghệ và có thêm nhiều thuê bao hơn. “Mức giá lúc đó hoàn toàn có thể đưa xuống thấp hơn nữa so với hiện nay và giảm dần theo từng năm”, đại diện CMC TI khẳng định.

Điều kiện thứ 2 để có thể kéo được mức giá xuống, đại diện CMC TI cho rằng, đó là phải trả lời được câu hỏi người dùng sẽ hưởng lợi được những gì trên đường thuê bao cáp quang quang mà ADSL không thể làm được. Chỉ có như vậy, FTTH mới có thể thu hút được nhiều khách hàng hơn nữa.

Ông Vũ Hoàng Liên lại cho rằng, xu hướng giảm giá còn phải so sánh với mức giá cáp quang của các nước trên thế giới và khu vực. “Nếu thấy giá vẫn còn cao và mình có khả năng giảm được thì vẫn sẽ tiếp tục giảm giá nhiều hơn nữa”, ông Liên nhấn mạnh. Hiện nay, tại Nhật Bản, mức giá FTTH rẻ nhất khoảng 5 nghìn yên (tương đương 1,25 triệu đồng) và cao nhất là 12 nghìn yên (tương đương 3 triệu đồng). Còn Singapore, giá cước thấp nhất của nhà cung cấp SingTel ở mức 178 đô la Singapore cho gói cước 10 Mbps(tương đương hơn 3 triệu đồng) và cao nhất là 298 đô la Singapore với gói 100 Mbps ( khoảng hơn 5 triệu đồng).

FTTC, FTTB đều là quá trình chuyển tiếp công nghệ từ Internet băng rộng (ADSL) lên Internet cáp quang (FTTH) với khả năng cung cấp băng thông upload/download đối xứng và tốc độ nhanh gấp nhiều lần ADSL. Ngoài ra cả FTTB và FTTC đều có khả năng hỗ trợ rộng rãi nhiều dịch vụ khác cho phép có thể sử dụng đồng thời nhiều dịch vụ tại cùng một thời điểm nhưng vẫn đảm bảo tốc độ truy cập và độ ổn định cao, trong đó có dịch vụ thoại, video trên nền IP (Internet Protocol), IPTV...

Theo ICTnews




Bình luận

  • TTCN (0)